-
-
-
Tổng tiền thanh toán:
-
Tin tức
Top 10 Bậc thầy về Tranh chân dung tự họa (Phần 2)
Cindy Sherman
Untitled, #571, 2016
"Cindy Sherman: Phản ánh đời sống" tại The Broad, Los Angeles
Tác phẩm có sức ảnh hưởng lớn của Cindy Sherman bị chi phối bởi khuôn mặt của người hoạ sĩ — nhưng thực tế không có tác phẩm nào của cô ấy là chân dung tự họa. Thay vào đó, Sherman sử dụng cơ thể của cô ấy như một vật chứa hoặc một mặt tranh trắng, làm cho hàng trăm nhân vật trở nên sống động trong những bức ảnh mà cô ấy đóng vai cả hoạ sĩ và chủ thể, làm việc trước và sau ống kính.
Sherman đã đảm nhận vai trò lai giữa nghệ sĩ-người mẫu-diễn viên này kể từ khi cô còn là sinh viên đại học vào năm 1975, khi cô mặc trang phục và trang điểm cho những bức ảnh theo phong cách photobooth, đã đưa cô đến với danh tiếng hai năm sau đó: loạt phim “Untitled Film Stills” (1977–1980) của cô.
Pablo Picasso
Tự họa, 1906
Musée Picasso Paris
Tự họa, Cuối năm 1901
Tate Modern
Pablo Picasso được biết đến với những thử nghiệm và sáng tạo đặc trưng cho sự nghiệp kéo dài hơn bảy thập kỷ của ông, và trong đống những bức chân dung tự họa mà ông để lại, người ta có thể chứng kiến những biến đổi đó: từ phiên bản Lãng mạn của chính năm 15 tuổi của ông đến những bức chân dung tự họa rời rạc mà ông hoàn thành ở tuổi 90.
Thật vậy, bức tự họa sớm nhất Chân dung tự họa (1896) có vẻ gần với tác phẩm của Delacroix hoặc Turner hơn những gì chúng ta biết rõ nhất về phong cách của Picasso. Nhưng điểm khởi đầu của Thời kỳ Xanh của ông, vào năm 1901, đã chứng kiến khả năng sáng tạo của Picasso trẻ tuổi nở rộ. Như thể hiện rõ trong bức chân dung tự họa đầy ám ảnh của anh ấy từ năm đó, chàng trai 20 tuổi đã trưởng thành đáng kể trong 5 năm đó, không chỉ về mặt thể chất mà còn về mặt nghệ thuật. Sau sáu năm phát triển sáng tạo nữa, Picasso thực hiện những bức chân dung tự họa theo trường phái Lập thể đầu tiên của mình, thể hiện hình ảnh của ông theo cách ngày càng hình học. Các học giả đã so sánh bức chân dung tự họa năm 1907 của ông với những khuôn mặt góc cạnh trong một tác phẩm khác mà ông vẽ năm đó, bức Les Demoiselles d’Avignon nổi tiếng.
Rất ít bức chân dung tự họa của Picasso được biết là tồn tại từ sau năm 1907, nhưng họa sĩ đã vẽ một số bức tranh chân dung về chính mình bằng bút màu và bút chì trong mùa hè năm 1972. Một trong số đó có thể là sát chân thực nhất: Trong bức Chân dung đối mặt tử thần, Picasso bất khả chiến bại khiến bản thân trông mệt mỏi, một nghệ sĩ sắp gặp Đấng Sáng Tạo của chính mình.
Rembrandt van Rijn
Tự họa ở tuổi 63, 1669
"Rembrandt: Những tác phẩm cuối" tại Bảo tàng Quốc gia Anh, London. 15/ 10/ 2014 – 18/ 1/ 2015.
Tự họa, 1659, 1659
Bảo tàng Quốc gia Mỹ, Washington D.C.
Bậc thầy Baroque người Hà Lan - Rembrandt van Rijn, đã tạo ra những bức chân dung tự họa trong suốt sự nghiệp lẫy lừng của mình. Ông đã tạo ra gần 100 bức vẽ về chính mình từ những ngày đầu là một họa sĩ cho đến năm ông mất — bao gồm khoảng 40 bức tranh, 30 bức khắc và một số ít bản vẽ. Các bức tranh ghi lại sự phát triển của ông theo một cách mà kể từ đó khó có ai có thể làm lại y hệt được.
Rembrandt luôn hình dung mình trước một phông nền đơn giản, và thường là từ phần thân lên. Trong những ví dụ đầu tiên của ông từ cuối những năm 1620, ông được vẽ lại với làn da trắng sứ, mịn màng và những lọn tóc xoăn bồng bềnh, thường che khuất một phần khuôn mặt của mình. Đến thập kỷ sau, ông thích đội mũ, chẳng hạn như mũ nhung đen xuất hiện trong nhiều bức tranh của ông.
Khi bước vào tuổi trung niên, Rembrandt đã miêu tả bản thân một cách tự nhiên và chân thực, với những nếp nhăn và mái tóc bạc. Trường phái Hiện thực này mở rộng cho việc khắc họa các trạng thái tâm lý của nghệ sĩ: Một ví dụ nổi bật từ năm 1659, hiện đang ở Phòng trưng bày Nghệ thuật Quốc gia của Washington, D.C., được vẽ sau khi ông bị tổn thất lớn về tài chính, sự căng thẳng dường như hằn sâu trên khuôn mặt ông. Vào năm 1669, trong những tháng trước khi ông qua đời ở tuổi 63, ông đã tạo ra không dưới bốn bức chân dung tự họa, trong đó vị Bậc thầy này già đi với hình ảnh những lọn tóc bạc mỏng, đôi mắt sâu và làn da mòn.
Artemisia Gentileschi
Tự họa câu chuyện của bức tranh, ca. 1639
Bộ sưu tập Hoàng gia, Windsor Castle, Anh.
Judith và Holofernes, ca. 1620
Là một tín đồ Caravaggio và con gái của Orazio Gentileschi (một họa sĩ thành công theo đúng nghĩa của ông), Artemisia Gentileschi là người phụ nữ đầu tiên được nhận vào Học viện Thiết kế Florentine, và là một trong số rất ít phụ nữ ở Ý thế kỷ 17 có khả năng để theo đuổi hội họa. Thật vậy, hình ảnh về các nữ họa sĩ hầu như không tồn tại, điều này khiến bức Chân dung tự họa của Gentileschi năm 1638–1639 được coi là Câu chuyện ‘truyền thuyết’ về hội họa càng đậm ý nghĩa hơn.
Ở đây, người nghệ sĩ biến mình thành hiện thân của chính bức tranh. Dựa trên mô tả bằng hình ảnh của Cesare Ripa văn bản Iconologica năm 1593 của ông, Gentileschi miêu tả mình với mái tóc đen bù xù, đeo một chiếc vòng cổ bằng vàng và chiếc váy màu xanh lá cây lung linh, tay cầm một chiếc cọ vẽ và bảng pha màu. Cô ấy cố tình bỏ đi một biểu tượng truyền thống gắn liền với câu chuyện truyền thuyết về hội họa: một tấm vải che miệng.
Gentileschi từ chối bị câm lặng, ngay cả sau khi bị cưỡng hiếp ở tuổi 17 bởi một giáo viên dạy vẽ - một trải nghiệm đau thương làm tổn hại đến danh tiếng của cô và truyền cảm hứng cho cô vẽ bức Judith Slaying Holofernes nổi tiếng (khoảng 1620). Trong khi tác phẩm này mô tả câu chuyện kinh thánh điển hình - một chủ đề phổ biến giữa các nghệ sĩ - thì Gentileschi đã tự đưa mình vào cảnh diễn xuất bạo lực của chính mình: cô ấy trong vai Judith cuồng nộ, kẻ hiếp dâm cô ấy trong vai Holofernes bị chặt đầu.
Andy Warhol
Tự họa, 1978
Andy Warhol từng nói rằng anh ấy tự chụp những bức chân dung để “nhắc nhở bản thân rằng anh ấy vẫn ở bên cạnh”. Thật vậy, hình ảnh và tính cách ‘biểu tượng nghệ thuật’ Pop art được cho là trung tâm của tác phẩm của anh ấy hơn bất kỳ nghệ sĩ nào. Giống như Cindy Sherman, người đồng nghiệp ở New York, những bức chân dung tự họa của Warhol xoay quanh khái niệm về cái tôi như một công trình nhân tạo.
Loạt tranh ảnh tự họa đầu tiên của Warhol, từ năm 1963, cho thấy người nghệ sĩ mặc áo mưa và kính râm trong một gian hàng đồ hiệu, tạo dáng nổi bật như những ngôi sao điện ảnh mà anh ấy đã chụp. Đến năm 1966, một bức chân dung tự họa mới, được lặp lại chín lần trên màn lụa và được vẽ thành các khối màu, tự xưng Warhol là một người nổi tiếng. Tuy nhiên, với những đường nét trên khuôn mặt bị lấn át bởi màu sắc và phần tối, Warhol vẫn bị che khuất khỏi người xem một cách hiệu quả. Trong loạt ảnh tự chụp chân dung kéo năm 1981 của mình bằng ảnh Polaroid, Warhol ‘ngụy trang’ dưới một nhân vật tóc vàng.
Nhưng trong bức tự họa cuối cùng của Warhol — được chụp vài tháng trước khi ông qua đời vào tháng 2 năm 1987 — trước đó, ông bị ám ảnh bởi hình ảnh tự mặc cho mình bất kỳ trang phục hoặc chỉnh sửa nào, thay vào đó xuất hiện hoàn toàn tự nhiên trong Six Self-Portraits (1986). Cái đầu sáng rực của anh ta trông ghê sợ và quái gở trước một vực thẳm đen phía sau, gần giống như một cái đầu lâu. Giống như những bức chân dung tự họa cuối cùng của Picasso, Warhol dường như nhận thức được cái chết hiển hiện của mình - thực tế rằng cuối cùng, bất kể chúng ta có đắp lên nhiều thời trang như thế nào, tất cả chúng ta, đều chỉ bằng xương bằng thịt.
Nguồn: https://www.artsy.net/article/artsy-editorial-10-masters-self-portrait-frida-kahlo-cindy-sherman
Biên dịch: Hưng
Biên tập: Ahndoar