-
-
-
Tổng tiền thanh toán:
-
Tin tức
Kỹ thuật vẽ tranh của Vermmer (phần 1)
Không có bất kỳ tài liệu nào hoàn toàn chính xác về kỹ thuật vẽ của Vermeer. Bởi vì những thông tin về phương pháp vẽ tranh của Hà Lan thế kỷ 17 chủ yếu dựa trên việc thu thập được từ các sách hướng dẫn vẽ tranh cùng với các kết quả phân tích khoa học hiện đại. Sách hướng dẫn vẽ tranh thiên về thảo luận các vấn đề lý thuyết của hội họa hơn là khía cạnh thực tế. Mặc dù quy trình cơ bản đã được rút ra, nhưng trong quá trình sáng tác họa sĩ có thể vận dụng và sáng tạo thêm các kỹ thuật để tạo ra những tác phẩm của riêng mình.
Mặc dù Vermeer đã không ngừng thử nghiệm các kỹ thuật để tạo ra những cảm giác không gian ba chiều từ hiệu ứng của ánh sáng tự nhiên, nhưng bằng chứng chỉ ra ông đã sáng tác chủ yếu trong phòng studio với ánh sáng nhân tạo. Những phương pháp này rất khác so với những phương pháp được sử dụng bởi các họa sĩ ngày nay. Các họa sĩ hiện đại thường thực hiện các tác phẩm theo một thể thống nhất. Họ thường đứng để vẽ tranh, điều này giúp họ dễ dàng hình dung tổng thể tác phẩm của mình. Những bức tranh của Vermeer được vẽ với đầy đủ màu sắc. Trong các tác phẩm của hoạ sĩ, ta thấy đủ mọi sắc độ khác nhau vậy nên có thể nói, thử nghiệm và ứng biến đóng vai trò rất quan trọng trong sáng tác nghệ thuật.
(Tranh sáng tác bởi họa sĩ Johannes Vermeer, 1662–1668, Bảo tàng Kunsthistorisches, Vienna)
Các họa sĩ thế kỷ 17 tiến hành theo một phương pháp cố định gồm nhiều bước mà họ đã quy định từ trước. Khối lượng công việc được chia thành các giai đoạn riêng biệt để giải quyết từng phần của bức tranh. Cơ sở lý luận của sự phân công lao động này dựa trên cả nền tảng kỹ thuật và kinh tế. Các bức tranh của thế kỷ 17 rất phức tạp, nhiều thành phần và hướng sự chú ý đến ánh sáng tự nhiên và chi tiết. Sau khi bản phác thảo và nguồn ánh sáng đã được hoàn thiện trong giai đoạn vẽ và sơn nền, các họa sĩ đã hoàn thành các tác phẩm của họ theo kiểu chắp vá, từng phần nhỏ.
Các giai đoạn chính kỹ thuật vẽ tranh của Vermeer
- Chuẩn bị vật liệu
- Phác thảo bản vẽ
- Sơn nền
- Bắt đầu vẽ và chỉnh sửa
- Đóng khung và bảo quản
Tổng quan sự phát triển của kỹ thuật Vermeer liên quan đến sự tiến hóa trong phong cách của ông
1. Tác phẩm ban đầu: Những bức tranh lịch sử
Những bức tranh lịch sử ban đầu của Vermeer, nói về nhiều khía cạnh khó có thể dung hòa với các tác phẩm sau này của ông. Điều này đã cung cấp cho ông một tầm nhìn bao quát và khả năng thực hiện mà không một họa sĩ thể loại nào khác trong thời kỳ này có thể có." Ông thường sử dụng sơn impasto dày cho các tác phẩm. Màu tranh cũng tương đối đậm, ánh sáng được hình thành theo cách thông thường. Sự tích tụ rõ ràng của sơn tạo ra một bề mặt dày đặc và không đồng đều làm nổi bật sự hiện diện của các đối tượng mặc dù việc sơn phủ nhiều lần dẫn đến việc không chắc chắn về mặt kỹ thuật. Những bức tranh lịch sử này có kích thước lớn hơn so với đồ nội thất. Sự thông thạo kỹ thuật sơn dầu trong tác phẩm Christ in the House of Martha and Mary là một tác phẩm nổi bật trong số những bức tranh ban đầu này. The Procuress có thể được coi là một tác phẩm trung gian giữa các chủ đề lịch sử và chủ đề sinh hoạt. Mặc dù chủ đề "hiện đại" của bức tranh khác với các tác phẩm đầu tiên về đề tải lịch sử đầu tiên nhưng quy mô, tổ chức không gian làm cho ta nhớ đến.
.2. Tranh sinh hoạt
(Tranh sơn dầu “Phúng dụ đức tin Công giáo”, 1670, Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan, New York)
Các tranh sinh hoạt đầu tiên của Vermeer phá cách so với các bức tranh lịch sử không chỉ về chủ đề, mà còn về kỹ thuật và kích thước. Chủ đề thể loại đã được tiên phong bởi các họa sĩ khác như Pieter de Hooch, Gerrit ter Borch và Nicolas Metsu. Như Arthur K. Wheelock Jr đã chỉ ra "thách thức mà ông đã đặt ra cho mình vào cuối những năm 1650 là chuyển các khuynh hướng cổ điển hóa các bức tranh thần thoại và tôn giáo ban đầu của mình thành một ngôn ngữ đương đại…"
Trong thời kỳ này, các hỗn hợp bột màu phức tạp được tìm thấy trong các bức tranh lịch sử ít được sử dụng và impasto (sơn mờ được bôi dày) được sử dụng có chọn lọc hơn. Các tông màu rực rỡ cần thiết để gợi ý cường độ của ánh sáng ban ngày, vốn đã nhanh chóng trở thành một trong những mối quan tâm nghệ thuật chính của Vermeer, thường được cấu tạo từ hai hoặc ba sắc tố. Để tạo ra không gian ba chiều ảo giác, Vermeer đã sử dụng các quy luật phối cảnh, điều mà bất kỳ họa sĩ đầy tham vọng nào cũng quen thuộc.
Các chấm nhọn nổi tiếng hoặc các chấm hình cầu bằng sơn dày màu sáng đại diện cho các điểm nổi bật , xuất hiện lần đầu tiên. Những điều này và những đặc điểm hình ảnh khác được tìm thấy trong các tác phẩm này cho thấy Vermeer đã bắt đầu sử dụng camera obscura, tiền thân của máy ảnh chụp ảnh hiện đại. Máy ảnh obscura lý tưởng để nghiên cứu sự vận hành tự nhiên của ánh sáng. Các đường viền trong nội thất đầu tiên có xu hướng sắc nét, đôi khi đến độ giòn, trong khi impasto được sử dụng để gợi lên sự lấp lánh của ánh sáng cũng như kết cấu.
Ngay từ khi bắt đầu sự nghiệp của mình, Vermeer đã thực hiện nhiều thay đổi trong quá trình vẽ tranh khi tìm kiếm một hình ảnh ưng ý: ông loại bỏ các nhân vật, thay đổi trang phục, điều chỉnh hình dạng của các tòa nhà trong vùng đất và cảnh quan thành phố của mình và xem xét lại vị trí và tỷ lệ của các đối tượng trong nội thất của mình. Vermeer thường vẽ trên nền màu sáng cũng như nhiều họa sĩ Hà Lan.
3. Tác phẩm của những năm 1660
Vào đầu những năm 1660, bề mặt các bức tranh của Vermeer có hiệu ứng gần như được đánh bóng. Nhiều bức vẽ chân dung đơn lẻ ràng buộc chặt chẽ, bố cục đối xứng.. Sơn được vẽ mỏng. Màu sắc mạnh bị giới hạn trong các khu vực hạn chế của bố cục. Các đường viền đa dạng hơn trước nhưng nhìn chung chúng được sử dụng nhiều hơn, đặc biệt là trong bóng tối. Mặc dù ánh sáng mô tả ngày càng trở nên quan trọng, hình thức được gợi ý bởi sự thay đổi tinh tế trong giọng điệu chứ không phải bởi sự mạnh mẽ .Ngay cả khi các tác phẩm của ông chưa đạt đến mức độ chi tiết siêu nhỏ, những bức tranh khác đã trở nên nổi tiếng khắp châu Âu. Có lẽ chỉ khi các tác phẩm của những hoạ sĩ này được so sánh cạnh nhau thì mới có thể cảm nhận hết được sự khác biệt. Ví dụ, trong tác phẩm Frans van Mieris' tiny Couple with a Puppy, những chiếc áo khoác được miêu tả tỉ mỉ đến mức ta có thể nhìn thấy từng sợ lông với độ chính xác đáng kinh ngạc.
Trong thời kỳ này, Vermeer cũng có thể đã sử dụng cọ vẽ lửng, thường được sử dụng để làm mịn các vết cọ, mở rộng lớp men và pha trộn các vùng màu lân cận không dễ nhận thấy.
(Tranh sơn dầu “Chân dung một gia đình tư sản thành Delft”, 1658-1660, Học viện Mỹ thuật Vienna, Vienna)
4. Những tác phẩm cuối
Trong những năm cuối hoạt động nghệ thuật, Vermeer đã thành thạo mọi kỹ thuật vẽ tranh. Các đường viền trở nên sắc nét một lần nữa nhưng khác với nội thất cùng thể loại ban đầu của anh ấy, sơn được sử dụng với sự tiết kiệm tối đa. Tác phẩm vẽ thường mang tính thư pháp một cách kỳ lạ, tự giải thoát khỏi sự miêu tả phiến diện, đôi khi tiếp cận với kỹ thuật điêu luyện. Các lớp sơn tách lớp, tạo hiệu ứng giòn, vụn theo thời gian. Ở một số đoạn, sơn đã được phủ quá mỏng để có thể quan sát được mặt đất bên dưới. Thực tế này đã khiến một số học giả tin rằng một số bức tranh vẫn chưa được hoàn thành.
Vào những năm 1670, hình thức được trừu tượng hóa. Kỹ thuật có tầm quan trọng lớn hơn, đến mức nó thách thức sự ảo tưởng.Ví dụ, các điểm nhấn màu sắc Vermeer dùng để chỉ nếp gấp của chiếc váy phụ nữ hoặc bông hồng trang trí tinh tế của cây đàn guitar trong The Guitar Player, trước hết được xem như là sơn, sau đó chỉ là mô tả về kết cấu vật liệu."
Trong khi Vermeer thử nghiệm nhiều kỹ thuật khác nhau, phương pháp và vật liệu cơ bản của ông vẫn tương tự như những người cùng thời.
Xem phần 2 tại :
Nguồn: http://www.essentialvermeer.com/technique/technique_overview.html
Trang Hà